IN LOGO TÚI VẢI
- Mã sản phẩm: 45
- Giá : Liên Hệ
- Minh gia huy nhận in logo và thương hiệu quảng cáo cũng như sự kiện quà tặng trên túi vải chất liệu canvas cho khách hàng đặt hàng và có nhu cầu may túi. Xưởng may được may trực tiếp từ nguồn vải đến may và in. Chi tiết đặt hàng liên hệ qua số điện thoại 0938465899
BẢO LÃNH PHÁT HÀNH
Bảo lãnh phát hành là việc đảm bảo với đơn vị phát hành rằng họ sẽ thu về được một số vốn nhất định từ mỗi đợt phát hành. Sự đảm bảo đó cho phép đơn vị phát hành lên kế hoạch sử dụng số vốn sẽ huy động mà không sợ rằng chứng khoán không bán được. Trong những đợt phát hành nhỏ, hoặc phát hành có tính nội bộ ( Bán cho các cổ đông hiện tại), đơn vị phát hành có thể không cần đến công ty bảo lãnh. Họ có thể tự quảng cáo cho mình. Tuy nhiên, công ty không thể tự triển khai những đợt phát hành lớn có bán cổ phần rộng rãi ra công chúng, mà họ phải nhờ tới các công ty có chức năng bảo lãnh phát hành ( Có thể là công ty chứng khoán, công ty tài chính hoặc ngân hàng đầu tư...),
1. Các hình thức bảo lãnh phát hành
Có ba hình thức bảo lãnh thường được các công ty trên thế giới áp dụng là:
Bảo lãnh chắc chắn: Là hình thức bảo lãnh mà công ty bảo lãnh phát hành nhận mua toàn bộ số chứng khoán từ đợt phát hành của công ty phát hành, sau đó sẽ bán dần ra công chúng. Giá mua của công ty bảo lãnh là giá thị trường. Hình thức này thường được áp dụng trong trường hợp công ty bảo lãnh phát hành cũng là đơn vị hoạt động kinh doanh - họ hoạt động cho chính mình và sẵn sàng chấp nhận mọi rủi ro. Công ty bão lãnh ký hợp đồng với đơn vị phát hành mua hết toàn bộ số chứng khoán của đợt phát hành theo một mức giá nào đó. Việc này đảm bảo cho đơn vị phát hành thu đủ số vốn cần thiết để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh doanh. Ngay sau đó, hoặc sau một thời gian nhất định khi công ty bảo lãnh cảm thấy tình hình thuận lợi, họ sẽ bán số chứng khoán đó ra công chúng với giá cao hơn giá mua. Nếu bán được, công ty bảo lãnh có lãi lớn. Ngược lại, công ty bảo lãnh có thể lỗ nặng. Khả năng đó hoàn toàn có thể xảy ra khi công chúng tỏ ra không mấy thiện cảm với loại chứng khoán đó, hoặc do công ty đưa ra mức giá bán quá cao, do thị trường chứng khoán đang biến động.
Bảo lãnh cố gắng tối đa: Là hình thức bão lãnh mà công ty bảo lãnh phát hành hứa sẽ cố gắng bán đến mức tối đa để bán hết số chứng khoán cần phát hành cho công ty phát hành. Trong trường hợp không bán hết, họ có thể giải quyết theo hai cách:
- Một là số chứng khoán còn lại được trả về cho công ty phát hành
- Hai là công ty bảo lãnh nhận mua toàn bộ số còn lại. Lúc đó, người bão lãnh sẽ được hưởng hoa hồng trên số chứng khoán đã bán ra
Bảo lãnh bảo đảm tất cả hoặc không: Là hình thức bảo lãnh phát hành hết, nghĩa là nếu không phát hành hết thì phần còn lại sẽ bị hủy bỏ. Đây là trường hợp công ty phát hành chứng khoán cần một số vốn nhất định để giải quyết một số mục tiêu nhất định. Hình thức bảo lãnh đòi hỏi sự cố gắng tối đa của công ty bảo lãnh phát hành chính khoán. Để cho việc chào bán chứng khoán có hiệu quả hơn, với trách nhiệm của người bảo lãnh, công ty phát hành yêu cầu phải phát hành được một số lượng chứng khoán cần phát hành. Nếu đạt được con số tối thiểu này, họ mới phát hành tiếp số còn lại, bằng không họ sẽ hủy bỏ toàn bộ.
2. Thủ tục và phương thức phát hành
Trước hết, công ty phát hành phải tìm đến các đơn vị có chức năng bảo lãnh phát hành có uy tín để thảo luận và ký kết hợp đồng bảo lãnh phát hành. Những hợp đồng bảo lãnh không chỉ đơn thuần là hợp đồng bảo lãnh thuần túy, mà có vai trò có ý nghĩa tham mưu, tư vấn cho đơn vị phát hành trong đợt phát hành chứng khoán đó. Trước khi quyết định ký kết hợp đồng bảo lãnh, công ty bảo lãnh phát hành phải thực hiện một cuộc điều tra chi tiết về tính hiệu que, triển vọng và khả năng của công ty phát hành ở đợt phát hành mới. Một công ty kiểm toán sẽ được mời đến để giám định tình hình tài chính của công ty phát hành, và một công ty luật cũng sẽ được mời đến để xem xét khía cạnh pháp lý của đợt phát hành mới. Có hai vấn đề hai bên cần phải thống nhất trước khi ký kết hợp đồng bảo lãnh. Một là công ty phát hành cần huy động bao nhiêu vốn hai là trong điều kiện thị trường hiện tại thì loại chứng khoán nào là thích hợp nhất. Ví dụ trong lúc thị trường chứng khoán đang lên giá thì phát hành cổ phiếu có lợi hơn cả. Nhưng khi việc đầu tư cổ phiếu không còn được ưu chuộng nữa thì các điều khoản hợp đồng lại phải kèm theo một số vấn đề như thời hạn của trái phiếu, loại trái phiếu, lãi suất cố định hay thả nổi, hay lãi suất chiết khấu...Tìm ra một giải pháp có thể thỏa mãn được cả nhà đầu tư lẫn công ty phát hành là điều không dễ dàng. Trong khi chờ đợi sự chấp thuận của Ủy Ban chứng khoán Nhà nước, công ty phát hành phải công bố bản cáo bạch thị trường để giới thiệu với nhà đầu tư về loại chứng khoán mới sắp được phát hành. Nhưng vì đó là bản cáo bạch chưa được chấp thuận, nghĩa là còn mang tính dự thảo, nên trên trang bìa phải in kèm một vạch màu đỏ hoặc có dòng chữ màu đỏ ghi rõ là : "Bản cáo bạch dự thảo". Khi Ủy ban Chứng Khoán Nhà Nước chấp thuận việc phát hành, bản cáo bạch mới được phát hành rộng rãi và có trang bìa mang vạch màu xanh, hoặc có một dòng chữ đậm màu xanh: " Bản cáo bạch chính thức". Sau 15 ngày kể từ ngày Ủy ban Chứng Khoán Nhà nước chấp thuận, công ty phát hành mới được phép phát hành chứng khoán đó, và việc phát hành phải tuân thủ theo đúng những nộ dung của bản cáo bạch. Việc phát hành chứng khoán ra công chúng có thể thực hiện theo các hình thức sau:
a, Bán riêng cho các nhà đầu tư tập thể, như quỹ đầu tư, quỹ mạo hiểm, quỹ hưu trí...Đây là những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, những khách hàng lớn và công ty phát hành hoặc công ty bảo lãnh phát hành có thể bán trực tiếp cho những tổ chức này.
b, Bán trực tiếp cho những người đầu tư cuối cùng là những cổ đông hiện tại hoặc những nhà đầu tư thân cận. Công ty cũng có thể bán toàn bộ hoặc bán một tỷ lệ nào đó trong số chứng khoán phát hành. Có thể bán ở bất cứ giá nào - Theo mệnh giá, thấp hơn hoặc cao hơn giá trị thị trường
c, Bán ra công chúng qua Sở Giao Dịch Chứng Khoán: Nếu công ty phát hành chứng khoán thông qua thị trường chứng khoán thì bản cáo bạch khi được trình lên Ủy Ban Chứng khoán nhà nước cũng phải đồng thời được gửi đến Sở Giao Dịch chứng khoán, kèm theo đơn xin niêm yết tại Sở giao dịch Chứng khoán. Hội đồng quản trị Sở Giao DỊch chứng khoán nào đó được niêm yết tại đây hay không. Tiêu chuẩn để được niêm yết tại Sở Giao Dịch ở các nước không hoàn toàn giống nhau. Thông thường ở các nước có thị trường lớn, tiêu chuẩn rất khắt khe, nhưng tại các thị trường chứng khoán non trẻ thì tiêu chuẩn lại khá dễ dãi. Trong những năm đầu, thị trường chứng khoán Việt Nam có số lượng chứng khoán chưa nhiều. Để khuyến khích các công ty đăng ký giao dịch trên thị trường Sở Giao dịch chứng khoán thu nhận tất cả các nước chấp nhận phát hành, kể cả cổ phiếu do các doanh nghiệp nhà nước phát hành để thực hiện cổ phần hóa. Tuy nhiên, đơn vị phát hành phải có đơn đăng ký gửi lên Sở Giao Dịch chứng khoán. Về lâu dài, để khuyến khích các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân thành lập những công ty cổ phần công cộng ( Đại chúng) có quy mô lớn nhằm thu hút tối đa nguồn vốn đầu tư nhỏ lẻ trong dân chúng. Việt Nam cũng cần có những quy định tối thiểu về tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán chính thức. Nói chung, đó phải là những công ty cổ phần công cộng có số cổ đông tối thiểu 100, với số vốn phải có ít nhất 10 tỷ và số cổ phần do công ty nắm giữ không dưới 20%. Công khai cáo bạch thị trường là một nguyên tắc quan trọng của thị trường chứng khoán. Sau khi đơn xin đăng ký phát hành được Ủy Ban chứng khoán nhà nước chấp thuận, bản cáo bạch phải được công bố rộng rãi trong dân chúng như hệ thống báo chí trung ương và địa chỉ phương, báo chuyên ngành của sở Giao Dịch Chứng khoán. Bản cáo bạch cũng có thể được phát hành dưới hình thức tóm tắt (Rút gọn) để cung cấp cho những đối tác riêng biệt. Nếu là loại chứng khoán đầu tư nước ngoài thì bản cáo bạch còn được dịch ra tiếng Anh.
Việc công bố bản cáo bạch thị trường không được mang tính quảng cáo với những lời lẽ hoa mỹ, phóng đại về tình hình hoạt động của công ty phát hành. Khi chứng khoán đã được phát hành trên thị trường chứng khoán, đơn vị phát hành phải thường xuyên công bố các báo cáo giữa kỳ và cả báo cáo đội xuất với nội dung chủ yếu bao quanh bảng cân đối kế toán, tài sản, ba tháng, sáu tháng, và 1 năm ( bản báo cáo sáu tháng phải có kiểm toán sơ bộ và báo cáo năm phải có kiểm toán chính thức). Ngoài ra, đơn vị phát hành còn phải báo cáo về những yếu tố có thể liên quan đến sự thay đổi về các giao dịch cụ thể nào đó khi Sở Giao dịch chứng khoán thấy cần thiết. Ngoài ra, đơn vị còn phải chủ động báo cáo về những tin tức đột xuất có khả năng ảnh hưởng tới giá của loại chứng khoán đó trên thị trường, ví dụ trong trường hợp có sự thâu tóm hay sát nhập công ty. Các bản báo cáo giữa kỳ cũng phải được công bố công khai như bản cáo bạch. Việc công bố các báo cáo đột xuất do Sở Giao Dịch chứng khoán quy định và thực hiện. Sau thời gian tối đa là hai tháng kể từ ngày Ủy ban chứng khoán nhà nước chấp nhận cho phép phát hành. Nếu loại chứng khoán đó không được phát hành thì nó nghiễn nhiên sẽ bị loại bỏ, và điều này sẽ được công bố rộng rãi. Đôi khi, Ủy ban chứng khoán có thể gia hạn thêm một thời gian nhất định ( Từ một đến hai tháng) nếu đơn vị phát hành có đề nghị chính thức và nêu ra được lý do chính đáng khiến việc phát hành bị chậm trễ. Ban điều hành Sở Giao dịch chứng khoán có thể đình chỉ tạm thời hoặc vĩnh viễn ra khỏi danh sách đăng ký yết gia một loại chứng khoán nào đó trong trường hợp như: Có biểu hiện hay dấu hiệu ảnh hưởng đến hoạt động chung của Sở Giao dịch hoặc lợi ích của nhà đầu tư. Vi phạm quy định về chế độ thông tin, báo cáo. Theo đề nghị của đơn vị phát hành, Theo yêu cầu của Ủy Ban chứng khoán nhà nước.
4, Phí bão lãnh
Các công ty bão lãnh phát hành chứng khoán được hưởng một khoản phí, đối với hình thức bảo lãnh chắc chắn hoặc hoa hồng đối với những hình thức bão lãnh khác. Phí bảo lãnh là mức chênh lệch giữa giá bán chứng khoán trên thị trường cho người đầu tư ( Người đầu tư phải trả ) và số tiền mà công ty phát hành nhận được, còn hoa hồng là một tỷ lệ phần trăm cố định trên một chứng khoán. Nếu là một nhóm bảo lãnh phát hành thì các công ty bảo lãnh sẽ nhận lại phí từ công ty bảo lãnh chính. Nhóm bán sẽ nhận được phí từ nhóm bảo lãnh phát hành. Mức phí bảo lãnh và hoa hồng cao hay thấp tùy thuộc vào tính chất của đợt phát hành và do hai bên thỏa thuận trong mức quy định của nhà nước. Thông thường đợt phát hành lần đầu ( Chứng khoán của công ty lần đầu tiên được bán ra công chúng) phải có mức phí và hoa hồng cao hơn lần phát bổ sung. Đối với trái phiếu, phí và hoa hồng, bảo lãnh còn tùy thuộc vào lãi suất trái phiếu, bởi lãi suất trái phiếu cao dễ bán chi phí thấp và ngược lại.
5, Phát hành nóng
Là việc phát hành chứng khoán bổ sung nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cấp bách để giải quyết một công việc cụ thể. Công ty có thể phát hành trái phiếu hoặc phát hành cổ phiếu ưu đãi có lãi suất, hoặc cổ tức cao hơn mức bình thường. Cổ phiếu phát hành nóng thường được giao dịch trên thị trường thứ ba, với giá bán cao hơn mệnh giá. Tuy nhiên, người ta cố gắng hạn chế kiểu phát hành này.
CỔ PHIẾU QUỸ
Cổ phiếu quỹ là một nội dung thu hút được sự quan tâm đặc biệt của không chỉ các nhà đầu tư hoạt động trên thị trường chứng khoán, mà cả nhiều chủ thể có liên quan khác. Công ty niêm yết chứng khoán coi cổ phiếu quỹ là một công cụ tài chính có thể kinh doanh để gia tăng thu nhập. Người đầu tư coi cổ phiếu quỹ là một yếu tố làm thay đổi giá cổ phiếu thường trên thị trường chứng khoán. Cơ quan quản lý thị trường chứng khoán coi cổ phiếu quỹ nhu một công cụ để can thiệp vào thị trường, một khi xuất hiện tình huống mà cơ quan này nhận thấy cần phải can thiệp. Tuy nhiên, cổ phiếu quỹ có thực hiện đầy đủ chức năng và vai trò của mình hay không lại tùy thuộc vào cách người ta sử dụng nó.
1, Khái niệm
Vì một lý do nào đó, công ty phát hành quyết định mua trở lại số cổ phiếu đã phát hành, và cổ phiếu quỹ chính là toàn bộ số cổ phiếu mà công ty đang giữ lại trên tổng số cổ phiếu đã phát hành. Vậy cổ phiếu quỹ không phải là cổ phiếu đang được nhà đầu tư sở hữu, hoặc cổ phiếu đang lưu thông trên thị trường chứng khoán. Điều đó có nghĩa là cổ phiếu quỹ không có cổ đông và đằng sau nó là không có vốn, và tất nhiên nó không được hoạch toán (Balance sheet) của công ty phát hành. Vốn cổ phần của một công ty cổ phần là tổng mệnh gia của toàn bộ số cổ phiếu đã phát hành. Mỗi khi công ty phát hành mua lại số cổ phiếu đã phát hành, công ty phải hoạch toán lại để giảm vốn điều lệ, cũng như khi bán cổ phiếu quỹ ra thị trường, công ty phải hoạch toán lại để tăng vốn điều lệ của mình. Trên thực tế, công ty không thể là cổ đông của mình, nên cổ phiếu quỹ không thể có cách hoạch toán nào khác hơn. Cổ phiếu quỹ tuy chỉ là những giấy tờ nhưng nó rất có ích nếu biết cách sử dụng nó: Lý do là.
Thứ nhất: Cổ phiếu quỹ là công cụ quan trọng để điều hòa vốn cổ phần của công ty cổ phần. Khi quy mô sản xuất của công ty thu hẹp lại, và nếu không muốn tỷ suất lợi nhuận và thu nhập của một cổ phần (EPS) giảm sút, công ty buộc phải giảm số lượng cổ phần bằng cách mua lại một số cổ phiếu quỹ. Khi quy mô sản xuất được mở rộng làm tăng nhu cầu sử dụng vốn, công ty lại bán cổ phiếu quỹ ra thị trường.
Thứ hai: Cổ phiếu quỹ có thể được dùng để chi trả cổ tức trong những năm mà công ty không có lợi nhuận, hoặc công ty muốn dùng để trả cổ tức thay ngân quỹ trong những năm công ty có lợi nhuận, nhưng lại muốn giữ lợi nhuận để tăng vốn hoạt động.
Thứ ba: Cổ phiếu quỹ có thể dùng để " Phát hành nóng" nhằm giải quyết một nhu cầu vốn cấp bách nào đó. Việc tăng hay giảm cổ phiếu quỹ sẽ làm vốn điều lệ của công ty giảm hoặc tăng theo. Khi bán hoặc mua lại cổ phiếu đã phát hành, công ty không phải xin phép như khi làm thủ tục phát hành, nhưng họ bắt buộc phải đăng ký với cơ quan quản lý thị trường chứng khoán, đồng thời phải đăng ký lại vốn điều lệ nhằm có cơ sở để điều chỉnh thuế vốn. Nguồn vốn để mua cổ phiếu quỹ của công ty phát hành là vốn cổ phần và các loại vốn không chia như vốn tích lũy và vốn bổ sung. ( Vốn bổ sung là phần chênh lệch giữa giá cổ phiếu khi phát hành bổ sung so với mệnh giá của chúng). Như vậy, công ty không được phép dùng vốn của ngân hàng và các loại vốn khác để mua lại cổ phiếu đã phát hành, bởi công ty sẽ không kiểm soát được vốn cổ phần của mình và vô hình trung công ty trở thành người cầm cố chứng khoán của chính mình. Trong trường hợp mua cổ phiếu bằng hình thức đi vay trên, bao giờ công ty cũng cầm chắc thành công nhờ ưu thế tuyệt đối về thông tin ( Vì là thông tin của chính mình). Điều đó tạo ra một thị trường không công bằng, và suy cho cùng đây là những giao dịch tay trong mà luật pháp từ lâu đã nghiêm cấm. Công ty cũng không được sử dụng cổ phiếu quỹ để điều tiết thị trường, bởi công ty niêm yết không có chức năng này, và khi đó thị trường chứng khoán không còn là tấm gương phản chiếu hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, cũng như tình hình chung của nền kinh tế. Ở bất kỳ thị trường chứng khoán nào, việc mua bán cổ phiếu cũng phải được quản lý chặt chẽ và nghiêm ngặt, đặc biệt là nguồn vốn dùng để mua cổ phiếu quỹ.
2, Ảnh hưởng của cổ phiếu quỹ đối với hoạt động đầu tư
Theo nghị định hiện hành của Ủy Ban chứng khoán nhà nước, cổ phiếu quỹ là số cổ phiếu đã phát hành và được chính tổ chức phát hành mua lại trên thị trường chứng khoán, và do đó, số cổ phiếu không bán hết sau một đợt phát hành sẽ không được coi là cổ phiếu quỹ.
a, Một số điểm đáng lưu ý về cổ phiếu quỹ và giao dịch cổ phiếu quỹ
- Cổ phiếu quỹ không được tính là cổ phiếu đang lưu hành của công ty phát hành và sẽ được tái lưu hành khi công ty bán ra. Tổng số cổ phiếu lưu hành chính là hiệu số giữa số cổ phiếu được phát hành và số cổ phiếu quỹ. Con số này sẽ giảm đi khi công ty mua lại cổ phiếu làm cổ phiếu quỹ, và sẽ tăng lên khi công ty bán ra ( Hay còn gọi là tái phát hành cổ phiếu quỹ) làm cho tổng số cổ phiếu quỹ giảm. Số lượng cổ phiếu lưu hành thay đổi sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến tổng lượng cung cổ phiếu của chính công ty phát hành trên thị trường, kéo theo giá cổ phiếu cũng bị chi phối. Cổ phiếu quỹ không được chia cổ tức và người nắm giữ cổ phiếu này không có các quyền lợi như khi nắm giữ các cổ phiếu khác. Lượng tiền công ty dùng để chi trả cổ tức chỉ được phép chia cho số cổ phiếu lưu hành, chứ không chia cho số cổ phiếu quỹ. Người nắm giữ cổ phiếu quỹ không được hưởng những quyền lợi quan trọng như khi nắm giữ các cổ phiếu khác, ví dụ như quyền biểu quyết hay đặc biệt là quyền được chia thêm cổ phiếu mới phát hành. Giao dịch cổ phiếu quỹ làm thay đổi giá trị sổ sách của công ty, khi công ty mua lại số cổ phiếu đang lưu hành. Nguồn vốn của chủ sở hữu sẽ hao hụt đi một lượng đùng bằng giá trị cổ phiếu tính theo giá mua vào. Nói cách khác, tổng giá trị cổ phiếu tính theo giá mua vào. Nói cách khác, tổng giá trị sổ sách của công ty sẽ giảm xuống. Ngược lại, khi tái phát hành cổ phiếu quỹ ra thị trường, giá trị sổ sách của công ty sẽ tăng lên với số lượng tương ứng. Mặt khác, khi công ty bán ra ( Tái phát hành) cổ phiếu quỹ, chênh lệnh giữa giá tái phát hành và giá mua lại được ghi vào khoản mục thặng dư vốn cổ phần. Đây là một phần của vốn chủ sở hữu, nên việc tái phát hành sẽ ảnh hưởng tới giá trị sổ sách của công ty. Tuy nhiên, con số này lại không được hoạch toán vào kết quả kinh doanh của công ty. Trước đây, khi chưa có hướng dẫn của Bộ Tài Chính nhiều công ty đã coi giao dịch này là một hoạt động tài chính. Chỉ số giá của thị trường thay đổi khi có giao dịch của tổ chức phát hành. Khi có giao dịch cổ phiếu quỹ, lượng cổ phiếu lưu hành của công ty sẽ thay đổi dẫn tới thị giá của công ty thay đổi, kéo theo tổng giá trị của toàn thị trường cũng thay đổi. Về lý thuyết, người ta cần phải tính lại chỉ số giá của toàn thị trường, nhưng ở Việt Nam hiện nay, việc tính lại chỉ số giá (VN-index) khi có giao dịch cổ phiếu quỹ vẫn chưa được thực hiện.
b, Mục đích mua lại cổ phiếu để làm cổ phiếu quỹ
Trường hợp 1: Công ty có một lượng tiền nhàn rỗi mà vẫn chưa tìm ra kế hoạch đầu tư phù hợp và hiệu quả. Thay vì trả cổ tức cho các cổ đông, công ty sẽ mua lại số cổ phiếu đã phát hành. Động thái này làm cho số lượng cổ phiếu đang lưu hành trên thị trường giảm xuống dẫn đến việc tỷ lệ sinh lời trên mỗi cổ phiếu (EPS) là lợi nhuận ròng = cổ tức ưu đãi / số cổ phiếu đang lưu hành tăng lên. Nếu công ty vẫn duy trì tốt hoạt động kinh doanh, điều đó sẽ có lợi cho các cổ đông hiện hữu. Về phía các nhà quản lý công ty, khi mua lại cổ phần làm cổ phiếu quỹ, họ cũng đặt kỳ vọng vào việc giá cổ phiếu sẽ tăng lên trong tương lai. Mặt khác, chúng ta cần lưu ý rằng do việc mua lại cổ phiếu đã phát hành làm giảm lượng tiền, nên nó cũng làm giảm cơ hội đầu tư để mở rộng sản xuất kinh doanh của công ty. Nghĩa là việc này có thể ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của công ty trong thời gian trước mắt.
Trường hợp 2: Theo các nhà quản lý công ty, cổ phiếu của công ty đang bị đánh giá thấp. Do việc mua lại cổ phiếu làm giảm lượng cung về cổ phiếu của công ty, nên nó có khả năng ảnh hưởng tốt tới sự biến động giá cổ phiếu trên thị trường. Đây cũng là một trong những cách can thiệp của một số công ty khi nhận thấy giá cổ phiếu của họ đang có xu hướng giảm. Trường hợp này đã từng diễn ra tại Việt Nam trong thời kỳ giá cổ phiếu có chiều hướng đi xuống và lượng cổ phiếu mua vào sụt giảm nhanh. Những lệnh đặt mua cổ phiếu của chính tổ chức phát hành đã làm cho không khí giao dịch trên thị trường trở nên sôi động hơn, đồng thời giữ gia cổ phiếu không tuột dốc quá nhanh.
c, Mục tiêu bán ra cổ phiếu quỹ
Trước hết là do công ty cần thêm vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Đây là giải pháp khá phổ biến giúp các công ty niêm yết trên thị trừng VIệt Nam có thêm vốn đầu tư vào các dự án mới. Giao dịch cổ phiếu quỹ thường có ảnh hưởng đáng kể tới giá cổ phiếu trên thị trường. Vì thế, việc để các công ty niêm yết tự do can thiệp vào giác cổ phiếu thông qua việc mua bán cổ phiếu quỹ sẽ làm giảm khả năng tự điều tiết của thị trường.
CỔ PHIẾU THƯỞNG ( BONUS SHARES)
Thời gian gần đây, giới đầu tư trên thị trường chứng khoán đề cập khá nhiều đến chính sách thưởng cổ phiểu. Nhằm giúp nhà đầu tư tìm hiểu thêm về khái niệm cổ phiếu thưởng, chúng ta sẽ phân tích một số trường hợp thưởng cổ phiếu thường gặp.
Trường hợp 1: Thưởng cho người có đóng góp lớn cho công ty. Khi nhắc đến khái niệm " Thưởng", người ta nghĩ ngay đến việc ưu đãi ( Thường là về vật chất) cho một số ít người có thành tích hay công lao đặc biệt. Thưởng cổ phiếu tại các công ty cổ phần có thể được hiểu là việc công ty dùng một cổ phiếu ( Trước đây là của chung tất cả cổ đông) đê thưởng cho các nhà quản lý, cán bộ công nhân, hay những người có đóng góp lớn đối với hoạt động của công ty. Nguồn cổ phiếu dùng để thưởng thường là cổ phiếu quỹ. Trong trường hợp này, tổng giá trị sổ sách của công ty không thay đổi. Cái được của những người được thưởng là rõ ràng: Tỷ lệ sở hữu công ty của họ sẽ tăng lên. Ngược lại, với các cổ đông không được thưởng, tỷ lệ sở hữu công ty của họ giảm đi. Đây là một cách phổ biến để công ty khuyến khích tinh thần làm việc và sự đóng góp của những người được thưởng, đặc biệt là đối với cấp quản lý, và hình thức khen thưởng này vẫn được đại hội cổ đông thông qua.
Trường hợp 2: Thưởng cho tất cả các cổ đông. Đây là trường hợp được rất nhiều công ty cổ phần trên thế giới áp dụng và điều này cũng bắt đầu được nhắc đến ở Việt Nam trong thời gian gần đây. Đó là việc tất cả các cổ đông của công ty đều được nhận thêm một số lượng cổ phiếu nào đó theo tỷ lệ nhất định. Ví dụ theo tỷ lệ 5:1, tức là cổ đông nắm giữ năm cổ phiếu cũ sẽ được nhận thêm một cổ phiếu mới. Tuy nhiên, cần chú ý một số nguyên tắc như sau: Công ty không nhận được nguồn vốn góp từ phía cổ đông hay từ bất kỳ nguồn nào, do đó vốn chủ sở hữu của các cổ đông không thay đổi. Về thực chất, đây là việc làm tăng vốn điều lệ từ nguồn lợi nhuận để lại. Nói cách khác, đây chỉ là việc chuyển đổi các khoản mục trong nguồn vốn cổ đông ( Từ lợi nhuận để lại sang vốn điều lệ) mà không làm thay đổi tổng nguồn vốn cổ đông
Cổ phiếu được phát hành thêm cho cổ đông sẽ làm tăng số lượng cổ phiếu của công ty. Khi số lượng cổ phiếu tăng lên, nguồn vốn chủ sở hữu không đổi, giá trị sổ sách ( Là nguồn vốn chủ sở hữu/ Tổng số phiếu ) của cổ phiếu sẽ giảm theo tỷ lệ tương ứng. Tỷ lệ sở hữu công ty của mỗi cổ đông trước và sau khi phát hành thêm cổ phiếu cũng không thay đổi. Mục đích các công ty trên thế giới hiện nay trả cổ tức cho cổ đông bằng cổ phiếu ( Stock divident ) thay vì trả bằng tiền ( Cash divident) là muốn giữ lại tiền để mở rộng sản xuất kinh doanh, hay đầu tư vào dự án mới. Việc các cổ đông có thu lợi từ chính sách này hay không sẽ phụ thuộc và được quyết định bởi sự thành công của kế hoạch đầu tư mới đó. Nếu kế hoạch đem lợi lợi nhuận cao, lượng tiền đầu tư của cổ đông được sử dụng hiệu quả, thì tổng giá trị của công ty sẽ tăng lên. Trong trường hợp ngược lại, hình thức thưởng này sẽ ảnh hưởng không chỉ tới phần cổ phiếu mới được nhận thêm, mà cả phần cổ phiếu các cổ đông đã nắm giữ trước đây. Cần nói thêm rằng, khi mọi cổ đông đều được hưởng một chế độ khuyến khích đồng nhất bằng nguồn vốn trích từ tài sản của họ, và điều quan trọng là việc đó có lợi cho họ hay không vẫn còn chưa rõ ràng, thì việc dùng từ " Thưởng" trong trường hợp này chưa thật sát nghĩa.
ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN
1, Định giá tài sản : Khi đánh giá một công ty để quyết định bỏ vốn đầu tư, chúng ta luôn phải dựa vào các yếu tố cơ bản phản ánh sức mạnh của một công ty. Các yếu tố tạo nên sức mạnh đó có thể thay đổi tùy theo cách phân tích, nhưng vị trí quan trọng hàng đầu bao giờ là lượng vốn của công ty, sau đó là tài sản và chất lượng lượng tài sản. Vì vậy, định giá tài sản trở thành một chủ đề hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Đây là một chủ đề lớn và xứng đáng được thành lập riêng một mục. mặc dù nó có liên quan mật thiết đến các kiến thức về cơ bản bản cáo bạch. Tuy nhiên đối với đa số nhà đầu tư, khái niệm gần gũi hơn là định giá cổ phiếu hay còn gọi là định giá đầu tư. Định gia tài sản bao hàm cả việc định giá tài sản các tài sản không phải là cổ phiếu. Mọi tài sản hữu hình cũng như tài sản vô hình đều có giá trị riêng của nó. Để có thể đầu tư vào một tài sản hay điều hành chúng một cách hiệu quả nhất, nhà đầu tư cần biết không chỉ giá trị của tài sản mà nguồn gốc của số tài sản ấy. Mọi tài sản đều có thể định giá được, nhưng việc định giá dễ dàng hay khó khăn lại phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Vì thế, phương thức định giá không thể là bất di bất dịch, mà luôn thay đổi để áp dụng cho phù hợp với thực tế. Chẳng hạn, việc định giá bất động sản sẽ đòi hỏi những thông tin và dựa trên những chuẩn mực hoàn toàn khác so với việc định giá một cổ phiếu đại chúng. Nhưng điều đáng ngạc nhiên lại không phải là sự khác biệt ở cách thức định giá những loại tài sản khác nhau, mà là sự đồng dạng về nguyên lý cơ bản trong công việc định giá. Một điều không thể chối cãi là tính bất định liên quan đến việc định giá. Thông thường, sự bất định này bắt nguồn trực tiếp từ bản thân tài sản được mang ra định giá, mặc dù các mô hình định giá cũng tác động ít nhiều lên tính bất định trên.
a, Cơ sở định giá
Có một điều đáng ngạc nhiên là khá đông nhà đầu tư cho rằng giá trị nội tại của tài sản là không quan trọng, vì chỉ cần cs " Một kẻ khờ khạo hơn mình" xuất hiện trên thị trường là nhà đầu tư đã có thể bán cổ phiếu với giá hời rồi ( Tạm gọi là lý thuyết khôn hơn một người ). Cho dù lý thuyết này có thể mang lại là biểu hiện của trò chơi nguy hiểm, bởi không có gì đảm bảo rằng con người duy nhất kia sẽ có mặt đúng lúc nhà đầu tư của chúng ta cần bán. Một nguyên lý cơ bản mà nhà đầu tư nào cũng thuộc lòng là không mua ( Đầu tư) với giá cao hơn giá trị của tài sản. Điều này đã từng bị lãng quên, nhưng lại được quan tâm trong thời gian gần đây. Vẫn còn nhiều người cho rằng giá trị tài sản là bất cứ con số nào, miễn có người sẵn sàng trả giá để mua nó. Nói chung, đây là một quan niệm hoàn toàn sai lầm. Ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt ( Ví dụ như đồ cổ hay các tác phẩm nghệ thuật ). Nguyên nhân là vì nhà đầu tư chỉ mua tài sản tài chính khi họ " nhìn thấy" dòng tiền đầu tư nhận được trong tương lai. Khái niệm về giá trị tài sản cần phải dựa trên cơ sở dòng tiền mà tài sản này sẽ sinh ra. mặc dù còn rất nhiều bàn cải xung quanh mô hình và phương thức tính toán, cũng như việc tiên đoán dòng tiền, hay hiệu chỉnh dòng tiền để thể hiện một cách trung thực hơn, thì điều hiển nhiên là giá trị tài sản không thể được xác định trên cơ sở ý kiến của nhà đầu tư sẵn sàng trả giá để mua nó. Đây là bài học lớn để lại cho giới đầu tư sau sự sụp đổ theo "Hiệu ứng Domino" của các công ty thương mại điện tử, hay một số thị trường tài chính châu Á gần đây.
b, Vai trò của việc định giá
Việc định giá tài sản có ý nghĩa quan trọng trong nhiều lĩnh vực, ở mỗi lĩnh vực vai trò này lại được thể hiện khác nhau. Trong việc quản lý danh mục đầu tư, vai trò định giá phụ thuộc vào phương thức đầu tư của chủ thể. Đối với nhà đầu tư thụ động, vai trò của định giá tương đối mờ nhạt. Tuy nhiên, nó lại cực kỳ quan trọng đối với những nhà đầu tư chủ động. Thế nhưng kể cả trong trường hợp này thì vai trò của việc định giá cũng khác nhau, và sự khác nhau đó phụ thuộc vào các trường phái và lĩnh vực đầu tư.
- Đối với các nhà đầu tư phân tích cơ bản: Về cơ bản, giá trị của công ty liên quan đến các thông số về kết quả hoạt động tài chính, cụ thể là tốc độ tăng trưởng, mức độ rủi ro và dòng tiền. Mọi sai số vượt ra khỏi " Khung giá trị" này được đẩy giá cao hơn mức giá thực. Những giả thiết được sử dụng trong trường hợp này làm cho mối quan hệ giữa giá trị của công ty và các thông số tài chính trở nên có thể xác định được. Mối liên hệ này có tính chất bền vững theo thời gian, và mọi sai số sẽ được hiệu chỉnh trong một khoảng thời gian nhất định. Định giá là trọng tâm nghiên cứu của các nhà phân tích cơ bản. Một số nhóm sử dụng mô hình chiết khấu dòng tiền để xác định giá ( Có thể kể đến mô hình định giá do công ty hàng đầu Mckinsey). Trong khi đó, các nhóm khác lại ưa chuộng các hệ số như P/E ( Chỉ số thị giá trên lợi nhuận ) hay P/Book value ( Trị giá trên giá trị sổ sách). Các nhà đầu tư theo phương pháp này thường đầu tư vào nhóm cổ phiếu dưới giá (Undervalue) với hy vọng đạt được mức tăng trưởng cao hơn.
Đối với nhà đầu tư kỹ thuật: Các nhà đầu tư kỹ thuật cho rằng sự thay đổi về giá cả thị trường, khối lượng giao dịch là do chịu ảnh hưởng về tâm lý của nhà đầu tư và đến lượt mình, điều đó lại ảnh hưởng đến xu hướng chuyển động của giá chứng khoán. Giả thiết là giá chuyển động theo mô hình mẫu có thể xác định và các nhà đầu tư bị dẫn dắt bởi cảm xúc hơn là sự phân tích của lý trí. Tuy nhiên định giá không đóng góp vai trò lớn trong trường hợp này, song nó vẫn được sử dụng trong một số trường hợp như xác định các đường hỗ trợ và kháng cự...
2. Các phương thức tiếp cận
Trên thực tế, các nhà phân tích sử dụng rất nhiều mô hình định giá khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp. Mỗi mô hình lại mang một số nét đặc trưng mà ta có thể dựa trên đó để phân loại. Việc phân loại này giúp chúng ta tìm ra mô hình thích hợp cho từng " Bài toán" cụ thể, giải thích sự khác biệt của các kết quả tính toán, hay tìm ra những sai lầm, nếu có, trong quá trình áp dụng. Tại thị trường Việt Nam hiện nay, chúng ta có hai phương thức tiếp cận chủ yếu đối với bài toán định giá. Thứ nhất là phương pháp " Dòng tiền chiết khấu", Phương pháp này thiết lập mối quan hệ giữa giá trị của một tài sản với chuỗi dòng tiền (Có chiết khấu) mà người ta kỳ vọng tài sản này có thể tạo ra được tương lai. Thứ hai là phương pháp " Định giá tương đối" trong đó người ta so sánh của các loại tài sản tương đương. Khái niệm" tương đương" ở đây được hiểu là sự tương đối khi so sánh một vài chỉ số tài chính thông dụng như lãi gộp, dòng tiền, giá trị sổ sách hay doanh số của tài sản đang định giá...với những tài sản mà ta đã có thông tin chắc chắn về giá.
b, Định giá vốn chủ hữu và định giá doanh nghiệp
Việc định giá doanh nghiệp được bàn đến nhiều trong thời gian gần đây, không chỉ ở doanh nghiệp,
Bài viết tiếp theo linh anchor text " Túi vải canvas in logo"
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------